Bao gồm:
I- Định nghĩa
II- Nguyên nhân-Cơ chế bệnh sinh
III- Triệu chứng và tiêu chuẩn chuẩn đoán
IV- Điều trị
I- Định nghĩa:
Đái tháo đường còn gọi là bệnh tiểu đường, là một nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa cacbonhydrat, mỡ và protein khi hoocmon ínulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương,,...
II- Nguyên nhân-Cơ chế bệnh sinh:
🔻Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường loại 1
Do sự thiếu insulin trầm trọng.
Khi bị thiếu insulin thì lượng đường trong máu không được chuyển hóa đến tế bào trong cơ thể nên không sinh ra năng lượng. Lúc này đường theo máu và được đào thải qua nước tiểu.
Như chúng ta đã biết hệ thống miễn dịch có cơ chế bảo vệ cơ thể bằng cách xác định và tiêu diệt vi khuẩn, virus. Nhưng trong các bệnh tự miễn dịch, hệ thống miễn dịch lại tấn công các tế bào trong cơ thể, và trong bệnh tiểu đường loại 1 thì hệ thống này đã tấn công các tế bào beta trong tuyến tụy làm cản trở hoặc ngừng sản xuất insulin của tuyến tụy. Các yếu tố chính của bệnh tiểu đường loại 1.
Do di truyền
Yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong việc xác định ai là người có khả năng phát triển bệnh tiểu đường loại 1. Gen được truyền từ bố mẹ sang con, gen giúp thực hiện tạo ra các protein cần thiết cho hoạt động của các tế bào. Tuy nhiên, do một số biến thể gen hoặc một vài nhóm gen tương tác với nhau tạo nên nguyên nhân chính gây ra bệnh tiểu đường.
Do hệ thống miễn dịch
Các tế bào bạch cầu trong hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công tế bào beta, làm cho tuyến tụy suy giảm hoặc mất hẳn chức năng sản xuất insulin. Do không sản xuất ra được insulin nên đã gây ra bệnh tiểu đường.
Do môi trường, thực phẩm, vi khuẩn, virus và các độc tố: Chính các yếu tố này gây ra sự phá hủy tế bào beta của tuyến tụy gây nên bệnh lý.
🔻Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường loại 2
Bệnh tiểu đường loại 2 được phát hiện khi cơ thể không còn sản xuất đủ insulin hoặc sự suy giảm về khả năng sử dụng insulin.
Có 2 nguyên nhân chính gây nên bệnh tiểu đường loại 2:
Yếu tố di truyền:
Gen đóng vai trò quan trọng đối với bệnh tiểu đường loại 2. Gen hoặc những nhóm gen biến thể có thể tác động làm suy giảm khả năng sản xuất insulin của tuyến tụy. Do đó, bố hoặc mẹ mắc bệnh tiểu đường loại 2 thì nguy cơ lây sang con cái là rất lớn.
Do béo phì và lười vận động:
Dư thừa Calo, mất đi sự cân đối calo với hoạt động của cơ thể gây tình trạng kháng insulin. Khi nạp quá nhiều dinh dưỡng vào cơ thể mà không có chế độ vận động hợp lý sẽ tác động tới tuyến tụy và gây áp lực ép tuyến tụy phải sản xuất insulin, trong thời gian dài tuyến tụy sẽ suy yếu và mất dần đi khả năng sản xuất insulin gây nên bệnh tiểu đường. Đối với những người béo phì nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuyp 2 cao hơn so với các trường hợp khác.
III- Triệu chứng và tiêu chuẩn chuẩn đoán:
➤ Triệu chứng: - Hậu quả trực tiếp của tăng glucose máu
+ Đái nhiều lần,số lượng nước tiểu tăng,tiểu đêm và khát nhiều( bài niệu thẩm thấu).
+ Rối loạn thj giác(thay đổi áp lực thẩm thấu trong nhãn cầu).
+ Viêm âm hộ,âm đạo,niệu đạo,bao quy đầu(nhiễm trùng tiết niệu sinh dục).
- Hậu quả của rối loạn chuyển hóa Glucose
+ Ngủ lịm,yếu mệt,giảm cân( thiếu glucose trong tế bào).
+ Nhiễm toan Ceton( tăng chuyển hóa mô).
Biến chứng mãn tính của tăng glucose máu và tăng lipid máu: bệnh lý mạch máu,tim,thận,thần kinh,bệnh mắt,nhiễm khuẩn,bệnh khớp.
Các triệu chứng thường thấy là tiểu nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, sụt cân nhanh là các triệu chứng thấy ở cả hai loại.
- Tiểu nhiều:
Glucose niệu kéo theo lợi niệu thẩm thấu làm tăng lượng nước tiểu, bệnh nhân thường xuyên mắc đi tiểu hơn người bình thường.
Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mảng trắng.
Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
- Ăn nhiều:
Cơ thể không thể sử dụng đường để cung cấp năng lượng làm cho bệnh nhân nhanh đói, đói chỉ sau bữa ăn một thời gian ngắn.
- Uống nhiều:
Mất nước làm kích hoạt trung tâm khát ở vùng hạ đồi, làm cho bệnh nhân có cảm giác khát và uống nước liên tục.
- Gầy nhiều:
Dù ăn uống nhiều hơn bình thường, nhưng do cơ thể không thể sử dụng glucose để tạo năng lượng, buộc phải tăng cường thoái hóa lipid và protid để bù trừ, làm cho bệnh nhân sụt cân, người gầy còm, xanh xao.
Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mảng trắng.
Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
- Ăn nhiều:
Cơ thể không thể sử dụng đường để cung cấp năng lượng làm cho bệnh nhân nhanh đói, đói chỉ sau bữa ăn một thời gian ngắn.
- Uống nhiều:
Mất nước làm kích hoạt trung tâm khát ở vùng hạ đồi, làm cho bệnh nhân có cảm giác khát và uống nước liên tục.
- Gầy nhiều:
Dù ăn uống nhiều hơn bình thường, nhưng do cơ thể không thể sử dụng glucose để tạo năng lượng, buộc phải tăng cường thoái hóa lipid và protid để bù trừ, làm cho bệnh nhân sụt cân, người gầy còm, xanh xao.
Với bệnh nhân đái tháo đường loại 2 thường không có bất kỳ triệu chứng nào ở giai đoạn đầu và vì vậy bệnh thường chẩn đoán muộn khoảng 7-10 năm (chỉ có cách kiểm tra đường máu cho phép chẩn đoán được ở giai đoạn này).
➤ Tiêu chuẩn chuẩn đoán:
➤ Tiêu chuẩn chuẩn đoán:
Dựa vào chỉ số đường huyết lúc đói và dung nạp glycose
1.Chẩn đoán tiền đái tháo đường
Chẩn đoán tiền đái tháo đường khi có một trong các rối loạn sau đây:
– Rối loạn glucose huyết đói (impaired fasting glucose: IFG): Glucose huyết tương lúc đói từ 100 (5,6mmol/L) đến 125 mg/dL (6,9 mmol/L), hoặc
– Rối loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance: IGT): Glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống 75 g từ 140 (7.8 mmol/L) đến 199 mg/dL (11 mmol/L), hoặc
– HbA1c từ 5,7% (39 mmol/mol) đến 6,4% (47 mmol/mol).
– Rối loạn dung nạp glucose (impaired glucose tolerance: IGT): Glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ sau khi làm nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống 75 g từ 140 (7.8 mmol/L) đến 199 mg/dL (11 mmol/L), hoặc
– HbA1c từ 5,7% (39 mmol/mol) đến 6,4% (47 mmol/mol).
Những tình trạng rối loạn glucose huyết này chưa đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán đái tháo đường nhưng vẫn có nguy cơ xuất hiện các biến chứng mạch máu lớn của đái tháo đường, được gọi là tiền đái tháo đường (pre-diabetes).
2.Chẩn đoán đái tháo đường
Dựa vào 1 trong 4 tiêu chuẩn sau đây:
a) Glucose huyết tương lúc đói (fasting plasma glucose: FPG) ≥ 126 mg/dL (hay 7 mmol/L). Bệnh nhân phải nhịn ăn (không uống nước ngọt, có thể uống nước lọc, nước đun sôi để nguội) ít nhất 8 giờ (thường phải nhịn đói qua đêm từ 8 -14 giờ), hoặc:
b) Glucose huyết tương ở thời điểm sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống 75g (oral glucose tolerance test: OGTT) ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống phải được thực hiện theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới: Bệnh nhân nhịn đói từ nửa đêm trước khi làm nghiệm pháp, dùng một lượng glucose tương đương với 75g glucose, hòa tan trong 250-300 ml nước, uống trong 5 phút; trong 3 ngày trước đó bệnh nhân ăn khẩu phần có khoảng 150-200 gam carbohydrat mỗi ngày.
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống phải được thực hiện theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới: Bệnh nhân nhịn đói từ nửa đêm trước khi làm nghiệm pháp, dùng một lượng glucose tương đương với 75g glucose, hòa tan trong 250-300 ml nước, uống trong 5 phút; trong 3 ngày trước đó bệnh nhân ăn khẩu phần có khoảng 150-200 gam carbohydrat mỗi ngày.
c) HbA1c ≥ 6,5% (48 mmol/mol). Xét nghiệm này phải được thực hiện ở phòng thí nghiệm được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế.
d) Ở bệnh nhân có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết hoặc mức glucose huyết tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).
Nếu không có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết (bao gồm tiểu nhiều, uống nhiều, ăn nhiều, sụt cân không rõ nguyên nhân), xét nghiệm chẩn đoán a, b, d ở trên cần được thực hiện lặp lại lần 2 để xác định chẩn đoán. Thời gian thực hiện xét nghiệm lần 2 sau lần thứ nhất có thể từ 1 đến 7 ngày.
Nếu không có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết (bao gồm tiểu nhiều, uống nhiều, ăn nhiều, sụt cân không rõ nguyên nhân), xét nghiệm chẩn đoán a, b, d ở trên cần được thực hiện lặp lại lần 2 để xác định chẩn đoán. Thời gian thực hiện xét nghiệm lần 2 sau lần thứ nhất có thể từ 1 đến 7 ngày.
Trong điều kiện thực tế tại Việt Nam, nên dùng phương pháp đơn giản và hiệu quả để chẩn đoán đái tháo đường là định lượng glucose huyết tương lúc đói 2 lần ≥ 126 mg/dL (hay 7 mmol/L). Nếu HbA1c được đo tại phòng xét nghiệm được chuẩn hóa quốc tế, có thể đo HbA1c 2 lần để chẩn đoán ĐTĐ
IV- Điều trị:
➤Mục tiêu điều trị:
- Kiểm soát đường huyết đạt mục tiêu và bền vững mà không gây hạ đường huyết.
- Điều trị và ngăn ngừa các biến chứng, đặc biệt là các yếu tố nguy cơ tim mạch- cách thành phần của hội chứng chuyển hóa.
➤ Phương pháp điều trị cụ thể:
A_Biện pháp không dùng thuốc:
1.Chế độ ăn
Chế độ ăn hợp lý đóng góp một vai trò rất lớn trong kiểm soát bệnh ĐTĐ, là nền tảng cơ bản trong kế hoạch điều trị bệnh. Chế độ ăn cho người ĐTĐ không phải là chế độ “ăn kiêng” đặc biệt, người bệnh không phải kiêng tuyệt đối một loại thực phẩm nào đó mà vấn đề là ăn như thế nào? ăn bao nhiêu? và ăn khi nào? Thực hiện chế độ ăn tốt trong ĐTĐ không gì khác ngoài một chế độ ăn lành mạnh, có thể áp dụng cho tất cả mọi người muốn có một sức khoẻ tốt. Không có một chế độ ăn duy nhất nào phù hợp với mọi bệnh nhân ĐTĐ vì cần phải linh hoạt điều chỉnh cho từng đối tượng tuỳ thuộc tuổi, giới, nghề nghiệp, tình trạng bệnh, sở thích..., tuy nhiên có những nguyên tắc chung mà người bệnh cần biết để áp dụng linh hoạt cho bản thân.
Chế độ ăn hợp lý đóng góp một vai trò rất lớn trong kiểm soát bệnh ĐTĐ, là nền tảng cơ bản trong kế hoạch điều trị bệnh. Chế độ ăn cho người ĐTĐ không phải là chế độ “ăn kiêng” đặc biệt, người bệnh không phải kiêng tuyệt đối một loại thực phẩm nào đó mà vấn đề là ăn như thế nào? ăn bao nhiêu? và ăn khi nào? Thực hiện chế độ ăn tốt trong ĐTĐ không gì khác ngoài một chế độ ăn lành mạnh, có thể áp dụng cho tất cả mọi người muốn có một sức khoẻ tốt. Không có một chế độ ăn duy nhất nào phù hợp với mọi bệnh nhân ĐTĐ vì cần phải linh hoạt điều chỉnh cho từng đối tượng tuỳ thuộc tuổi, giới, nghề nghiệp, tình trạng bệnh, sở thích..., tuy nhiên có những nguyên tắc chung mà người bệnh cần biết để áp dụng linh hoạt cho bản thân.
2. Thế nào là chế độ ăn uống lành mạnh?
Đảm bảo đủ và cân đối về năng lượng và các thành phần chất dinh dưỡng cho nhu cầu tăng trưởng, phát triển và duy trì sức khoẻ.
Điều chỉnh tuỳ theo mức độ hoạt động thể lực hàng ngày của mỗi cá nhân.
Phù hợp với sở thích, thói quen và điều kiện kinh tế và xã hội của mỗi người.
Thực đơn cần linh hoạt và đa dạng.
Giúp kiểm soát đường máu đạt mục tiêu, không làm tăng đườn huyết nhiều sau ăn, không làm hạ đường huyết lúc xa bữa ăn.
Duy trì cân nặng ở mức lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.
Ngăn ngừa bệnh tật: tim mạch, huyết áp, rối loạn mỡ máu, ung thư
3. Người ĐTĐ nên ăn như thế nào?
Điều chỉnh tuỳ theo mức độ hoạt động thể lực hàng ngày của mỗi cá nhân.
Phù hợp với sở thích, thói quen và điều kiện kinh tế và xã hội của mỗi người.
Thực đơn cần linh hoạt và đa dạng.
Giúp kiểm soát đường máu đạt mục tiêu, không làm tăng đườn huyết nhiều sau ăn, không làm hạ đường huyết lúc xa bữa ăn.
Duy trì cân nặng ở mức lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý.
Ngăn ngừa bệnh tật: tim mạch, huyết áp, rối loạn mỡ máu, ung thư
3. Người ĐTĐ nên ăn như thế nào?
- Ăn đúng giờ mỗi ngày, không bỏ bữa.
- Có thể chia thành nhiều bữa nhỏ nhưng không ăn vặt. Có thể ăn 3 bữa ăn chính, hoặc 3 bữa chính 2 bữa ăn phụ (nếu tiêm nhiều mũi insulin). Ăn 1 bữa trước khi đi ngủ nếu tiêm mũi insulin trước ngủ nhằm tránh hạ đường huyết khi ngủ.
- Ăn cùng một lượng mỗi ngày.
- Ăn cùng một lượng chất bột đường mỗi bữa.
- Ăn đầy đủ các nhóm thực phẩm (glucid, lipid, protid, vitamin và khoáng chất) mỗi ngày, mỗi bữa.
- Lựa chọn “ thông minh” trong ăn uống: Lựa chọn thực phẩm có nhiều chất xơ, ăn nhiều đạm có nguồn gốc thực vật, ít chất béo, đặc biệt chất béo bão hoà, các loại thực phẩm có chỉ số tăng đường máu (GI) thấp.
- Có thể chia thành nhiều bữa nhỏ nhưng không ăn vặt. Có thể ăn 3 bữa ăn chính, hoặc 3 bữa chính 2 bữa ăn phụ (nếu tiêm nhiều mũi insulin). Ăn 1 bữa trước khi đi ngủ nếu tiêm mũi insulin trước ngủ nhằm tránh hạ đường huyết khi ngủ.
- Ăn cùng một lượng mỗi ngày.
- Ăn cùng một lượng chất bột đường mỗi bữa.
- Ăn đầy đủ các nhóm thực phẩm (glucid, lipid, protid, vitamin và khoáng chất) mỗi ngày, mỗi bữa.
- Lựa chọn “ thông minh” trong ăn uống: Lựa chọn thực phẩm có nhiều chất xơ, ăn nhiều đạm có nguồn gốc thực vật, ít chất béo, đặc biệt chất béo bão hoà, các loại thực phẩm có chỉ số tăng đường máu (GI) thấp.
- Chế biến thực phẩm chú trọng luộc, hấp, áp chảo, hạn chế đồ rán, xào, sử dụng các loại gia vị và nước sốt ít béo, ít muối và đường. Ăn trái cây nguyên quả, không ép nước.
- Đa dạng hoá thực phẩm trong ngày và trong từng bữa ăn.
4. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ cải thiện sức khoẻ nói chung và giúp chống lại bệnh tật, nhất là bệnh tim mạch, xương khớp. Tập luyện làm tăng cường sinh lực, giảm cân và giảm đường máu nên được coi là một biện pháp quan trọng trong điều trị bệnh nhân ĐTĐ.
- Đa dạng hoá thực phẩm trong ngày và trong từng bữa ăn.
Đậu Bắp
Mướp Đắng
4. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ cải thiện sức khoẻ nói chung và giúp chống lại bệnh tật, nhất là bệnh tim mạch, xương khớp. Tập luyện làm tăng cường sinh lực, giảm cân và giảm đường máu nên được coi là một biện pháp quan trọng trong điều trị bệnh nhân ĐTĐ.
4.1. Lưu ý trước khi bắt đầu chế độ luyện tập
Người bệnh ĐTĐ, trước khi áp dụng một chế độ tập luyện TDTT, nên đến khám bác sĩ chuyên khoa để có được lời khuyên về chế độ tập luyện TDTT cụ thể và thích hợp, về việc lựa chọn môn thể thao nào, cường độ và thời gian luyện tập ra sao, có điều gì phải tránh, lưu ý những gì khi tập.
4.2. Tập luyện an toàn và hiệu quả
- Lựa chọn hình thức phù hợp với tình trạng sức khoẻ và sở thích.
- Tập luyện bắt đầu từ từ , tăng dần về thời gian, cường độ. Trong khi tập luyện, phải luôn “lắng nghe cơ thể “ để tự điều chỉnh mức độ tập theo tình trạng của bản thân. Nếu tập quá nhanh, quá mạnh hoặc quá lâu có thể gây đau đớn hay kiệt sức, điều này có thể gây chấn thương, làm nặng thêm các biến chứng sẵn có, thậm chí đe doạ tính mạng
- Một bài tập tốt bao gồm 3 giai đoạn:
+ Bắt đầu khởi động 5-10 phút: làm nóng cơ thể bằng những động tác co duỗi nhẹ nhàng, chậm rãi.
+ Phần chính của bài tập: ít nhất là 20 đến 30 phút. Tập với cường độ mạnh hơn nhưng chú ý không quá gắng sức gây thở dốc, mệt lả hay căng cơ bắp quá mức (vẫn có thể nói chuyện với người cùng tập). Mục tiêu của giai đoạn này là đạt tới nhịp tim tăng thêm trong khoảng 50% đến 70% nhịp tim dự trữ.
Nhịp tim dự trữ = Nhịp tim tối đa - Nhịp tim lúc nghỉ
Nhịp tim tối đa = 220 - Tuổi
Nhịp tim lúc nghỉ: nhịp đo lúc vừa ngủ dậy, chưa ra khỏi giường (Không áp dụng cho những người có biến chứng thần kinh tự động hoặc dùng các thuốc tim mạch ảnh hưởng tới nhịp tim).
Nhịp tim tối đa = 220 - Tuổi
Nhịp tim lúc nghỉ: nhịp đo lúc vừa ngủ dậy, chưa ra khỏi giường (Không áp dụng cho những người có biến chứng thần kinh tự động hoặc dùng các thuốc tim mạch ảnh hưởng tới nhịp tim).
+ Kết thúc bài tập: 5 đến 10 phút thả lỏng, giãn gân cốt. Không nên kết thúc đột ngột mà phải tiếp tục vận động chậm dần để cho nhịp tim, nhịp thở giảm dần, cơ bắp thả lỏng dần.
- Để đạt hiệu quả, tập ít nhất 3,4 lần mỗi tuần.
- Có thể kết hợp một số hình thức tập khác nhau xen kẽ giữa các ngày trong tuần.
- Để đạt hiệu quả, tập ít nhất 3,4 lần mỗi tuần.
- Có thể kết hợp một số hình thức tập khác nhau xen kẽ giữa các ngày trong tuần.
4.3. Một số chú ý khi tập luyện TDTT ở người ĐTĐ
Người có bệnh lý võng mạc tăng sinh thì tập TDTT có thể làm tăng xuất huyết võng mạc, bong võng mạc dẫn đến giảm thị lực thậm chí có thể mù nên cần phải được phát hiện và điều trị trước khi bắt đầu luyện tập. Không nên tập cường độ mạnh.
Với người có biến chứng TK ngoại biên và bệnh lý bàn chân có thể bị sang chấn phần mềm, khớp và bàn chân do giảm hoặc mất cảm giác. Vì thế cần tránh các môn như chạy, đi bộ nhanh, thể dục nhịp điệu mạnh, cần chọn giày thích hợp, sau mỗi lần tập phải kiểm tra kỹ bàn chân xem có những nốt phồng đỏ, xây xát, các nốt phỏng, đau, ngứa...
Những người béo phì hoặc có bệnh về xương khớp (thoái khớp, loãng xương) khi tập nặng thì sẽ có nguy cơ gãy xương, tổn thương khớp cao hơn, nên tập từ từ tăng dần mức độ trong thời gian dài.
Người có bệnh tim mạch, THA tập nặng thì nguy cơ bị các biến cố như đột quỵ, nhồi máu cơ tim... sẽ tăng lên. Những người này cần được kiểm tra kỹ về tim mạch, làm nghiệm pháp gắng sức trước khi đặt ra chế độ tập luyện, cần tránh những bài tập đối kháng hoặc căng cứng cơ. Với những người phục hồi sau đột quỵ, NMCT cũng có thể tập từ từ, bắt đầu từ việc tăng dần các hoạt động thường ngày và làm việc nhà (ví dụ leo cầu thang).
Khi có biến chứng TK tự động, cơ thể sẽ không có đáp ứng tốt với các thay đổi do bài tập gây ra, dễ có nguy cơ mất nước, tụt HA, khả năng đáp ứng nhịp tim bị hạn chế, nên chọn bài tập nhẹ như đi bộ.
Nguy cơ mất nước, mất chất điện giải do mất quá nhiều mồ hôi có thể dẫn tới tụt HA, truỵ mạch. Phòng tránh bằng cách không nên tập quá lâu nhất là khi thời tiết nóng bức, luôn mang theo đồ uống để bù dịch bất cứ khi nào trong và sau khi tập.
Không nên tập thể dục khi đường máu quá cao hoặc quá thấp, khi có ceton trong nước tiểu.
Người có bệnh lý võng mạc tăng sinh thì tập TDTT có thể làm tăng xuất huyết võng mạc, bong võng mạc dẫn đến giảm thị lực thậm chí có thể mù nên cần phải được phát hiện và điều trị trước khi bắt đầu luyện tập. Không nên tập cường độ mạnh.
Với người có biến chứng TK ngoại biên và bệnh lý bàn chân có thể bị sang chấn phần mềm, khớp và bàn chân do giảm hoặc mất cảm giác. Vì thế cần tránh các môn như chạy, đi bộ nhanh, thể dục nhịp điệu mạnh, cần chọn giày thích hợp, sau mỗi lần tập phải kiểm tra kỹ bàn chân xem có những nốt phồng đỏ, xây xát, các nốt phỏng, đau, ngứa...
Những người béo phì hoặc có bệnh về xương khớp (thoái khớp, loãng xương) khi tập nặng thì sẽ có nguy cơ gãy xương, tổn thương khớp cao hơn, nên tập từ từ tăng dần mức độ trong thời gian dài.
Người có bệnh tim mạch, THA tập nặng thì nguy cơ bị các biến cố như đột quỵ, nhồi máu cơ tim... sẽ tăng lên. Những người này cần được kiểm tra kỹ về tim mạch, làm nghiệm pháp gắng sức trước khi đặt ra chế độ tập luyện, cần tránh những bài tập đối kháng hoặc căng cứng cơ. Với những người phục hồi sau đột quỵ, NMCT cũng có thể tập từ từ, bắt đầu từ việc tăng dần các hoạt động thường ngày và làm việc nhà (ví dụ leo cầu thang).
Khi có biến chứng TK tự động, cơ thể sẽ không có đáp ứng tốt với các thay đổi do bài tập gây ra, dễ có nguy cơ mất nước, tụt HA, khả năng đáp ứng nhịp tim bị hạn chế, nên chọn bài tập nhẹ như đi bộ.
Nguy cơ mất nước, mất chất điện giải do mất quá nhiều mồ hôi có thể dẫn tới tụt HA, truỵ mạch. Phòng tránh bằng cách không nên tập quá lâu nhất là khi thời tiết nóng bức, luôn mang theo đồ uống để bù dịch bất cứ khi nào trong và sau khi tập.
Không nên tập thể dục khi đường máu quá cao hoặc quá thấp, khi có ceton trong nước tiểu.
B_Thuốc điều trị:
1. Liệu pháp insulin:
Insulin là chỉ định bắt buộc với ĐTĐ typ1 để đảm bảo ổn định đường huyêt cho bệnh nhân. Liều lượng insulin tùy thuộc vào tình trạng thiếu insulin. Lựa chọn dạng insulin, phân chia liều phù thuộc mức độ hoạt động và cách sống của bệnh nhân.
2.Thuốc hạ đường huyết:
Click :
→ Trang1
→ Trang1
→ Trang 2
→ Trang 3
→ Trang 4
→ Trang 5
0 nhận xét:
Đăng nhận xét